Cá lăng là
loại cá da trơn, có nhiều ở miền Tây Nam Bộ mình có màu vàng sáng đẹp, vây lưng của chúng có một gai
(ngạnh) ở trước (ngoại trừ chi Olyra). Có vây mỡ và nó có thể có phần cuống gốc
tương đối dài ở một số loài. Ngạnh của vây ức có thể có khía răng cưa. Thân
không có vảy, hơi nhớt. Chiều dài tối đa khoảng 1,5 m. Có 4 cặp râu khá phát
triển; các cặp râu này được che phủ bằng một lớp biểu mô nhiều nụ vị giác.
>>> Chả
cá Anh Vũ
Cá Lăng có thân mình hơi bè, thuôn dài
về phía sau, phần đầu to bạnh hung dữ, có ba ngạnh sắc dài cỡ nửa đốt ngón tay
đóng ở hai bên mép và trên sống lưng. Ngạnh sắc nhọn là vũ khí tự vệ mỗi khi bị
tấn công và là một phần của bánh lái giúp cá Lăng vượt sóng dễ dàng.
Cá Lăng có ria mép dài hai ba sợi ở mỗi
bên, đuôi rất khoẻ có khả năng bật ngược lên nô dỡn cùng sóng dữ. Cá Lăng
thường ăn mồi sống, tôm tép, cá con và phù du, khi ẩn mình trong hang thường
nhẩn nha ăn rêu bám trên vách đá.
Giá trị dinh dưỡng:
100g
Năng lượng: 112kcal;
chất béo: 4g;
protein: 19g.
Công dụng
tính bình, vị ngọt, có
tác dụng thông lợi tiểu. Thịt cá mềm, thơm ngon, ít xương dăm, giàu chất dinh
dưỡng.
Cá lăng có giá trị
kinh tế cao vì thịt thơm, ngon, giàu chất dinh dưỡng, Omega 3, thịt cá lại
không có dăm xương,… nên được các bà nôi trợ rất ưa thích, chế biến thành những
món ngon như hấp chanh, nướng sả, chiên tươi, nấu cháo (đầu cá), làm chả, kho
khô, nấu canh chua lá giang…Và, độc đáo hơn cả phải kể đến món cá lăng kho
khóm.
Ưu điểm rõ nhất của
cách nấu là thịt cá Lăng được ướp kỹ các gia vị: hành củ, nước mắm, muối tiêu,
nước nghệ nên khi nấu thịt không bị nát mà ngược lại thêm săn chắc ngọt thấm
đậm gia vị, ăn thì ngon đáo để, dễ chừng khó có món canh măng nào địch nổi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét